Thứ 7, 21/06/2025, 23:27[GMT+7]

Nhớ mãi một chi tiết trong bài báo

Thứ 2, 08/06/2015 | 15:06:48
1,496 lượt xem
Vào khoảng cuối năm 1967, Đại úy Văn Đạt, Phó Tổng Biên tập phụ trách Báo Sông Hồng của Quân khu Tả Ngạn gọi tôi vào phòng làm việc. Anh mời tôi chén trà Liên Hoa và bảo:

Hoạt động tác nghiệp của phóng viên.

 

- Theo báo cáo của Tỉnh đội Hải Dương, có đồng chí xã đội trưởng của một xã thuộc huyện Gia Lộc ngày đêm bám sát trận địa pháo 37 ly của dân quân, góp phần cùng quân dân trong huyện và trận địa pháo cao xạ và tên lửa của bộ đội chủ lực bắn rơi một chiếc F105 của giặc Mỹ. Trận địa phòng không của xã cũng vài lần bị máy bay Mỹ phát hiện và bắn rốc két thẳng vào ụ pháo. Bị thương nhưng đồng chí ấy vẫn cùng đồng đội bám sát trận địa!

 

Nói rồi, Văn Đạt đưa cho tôi bản báo cáo thành tích đề nghị cấp trên khen thưởng của Ban Chính trị Tỉnh đội viết về quân và dân tỉnh Hải Dương nói chung và đồng chí xã đội trưởng nói riêng. Ông nói tiếp:

 

- Đồng chí đem bản báo cáo này về tối nay đọc, gương nào hay thì phải ghi chép đầy đủ. Sáng mai đồng chí về Gia Lộc viết gương đồng chí xã đội trưởng đó. Càng nhanh càng tốt, cuối tuần báo đã lên trang rồi!

 

Người lính thời chiến, dù là phóng viên hay đang làm nhiệm vụ chiến đấu tất cả đều nhận lệnh bằng một từ “Rõ”. Tôi cũng vậy, nhanh chóng về nơi đóng quân chuẩn bị ba lô, sửa sang chiếc xe đạp Vĩnh Cửu (Trung Quốc) màu rêu, đến nhà quản lý bếp ăn đổi tem lấy ba chiếc bánh mỳ loại 225 gam. Tất cả đều gọn ghẽ trong chiếc ba lô đã sờn bạc để sớm mai lên đường.

 

Cơ quan Báo Sông Hồng thời kỳ ấy đóng quân tại xã An Lạc, huyện Chí Linh, cách thị xã Hải Dương khoảng 40km nhưng đi ngoằn ngoèo để tránh các mục tiêu mà máy bay Mỹ thường oanh tạc khoảng hơn 50km. Thời gian ấy, máy bay Mỹ liên tục đánh phá rất ác liệt cả ngày lẫn đêm dọc tuyến đường 5 Hà Nội - Hải Phòng, mục tiêu chính là hai cây cầu lớn Lai Vu, Phú Lương, trung tâm thị xã đến Quán Gỏi, Phố Nối. Dọc tuyến xe lửa, máy bay Mỹ ngày đêm oanh tạc các ga Lai Vu, Hải Dương, Cao Xá, Hoàng Mai, Cẩm Giàng... Để tránh máy bay Mỹ, tôi chọn đường qua phà Bình, đạp xe gần thị trấn Nam Sách thì đi tắt qua hơn chục xã, qua bến thuyền sông Giám, lên Văn Thai, Cẩm Vũ, ra Lai Cách của huyện Cẩm Giàng, qua đò Cậy của huyện Bình Giang rồi rẽ trái sang huyện Gia Lộc. Mải miết đạp xe, mãi cuối chiều mới tìm đến nơi sơ tán của Tỉnh đội gặp Trung úy Phạm Hồng Thái, Trợ lý Chính trị Tỉnh đội, cộng tác viên của báo để mời anh cùng đi. Không kịp ăn cơm chiều, tôi và anh Thái phóng xe đến thẳng địa điểm mà tôi đang cần.

 

Bấy giờ đang mùa hè, gần sáu giờ chiều mà trời vẫn còn sáng. Gia đình đồng chí bí thư chi bộ xã nhanh chóng chuẩn bị bữa cơm chiều cho khách. Gọi là “thiết đãi” nhưng thực chất chỉ là cơm không độn khoai, ngô hoặc bo bo. Thức ăn là bát cá bống mũn nấu với quả dọc, đĩa rạm kho và bát canh chân rạm nấu với mồng tơi, rau đay. Tôi lấy ba chiếc bánh mỳ tiêu chuẩn biếu lại gia đình. Bữa cơm thời chiến diễn ra chóng vánh. Thời ấy, bữa cơm chiều diễn ra rất sớm để vừa đỡ tốn tiền dầu đèn lại tránh được sự rình mò của máy bay Mỹ. Vừa uống xong bát nước chè, đồng chí bí thư chi bộ xã bảo giờ này bọn Mỹ thường ít hoạt động, hai đồng chí ra ngay trận địa  pháo 37 ly để gặp xã đội trưởng kiêm khẩu đội trưởng pháo phòng không. Anh Thái cũng nói nhỏ với tôi, thành tích của đồng chí xã đội trưởng đã được Ban Chính trị Tỉnh đội viết khá đầy đủ thì không nên hỏi nhiều. Cần gì thì hỏi, nhưng phải nhanh chóng rút quân. Tôi cứ thấy phân vân. Bản báo cáo thành tích dài 6 - 7 trang đánh máy mà tôi đọc tối hôm qua mới chỉ dừng lại ở sự liệt kê thành tích với hàng loạt các từ kép mạnh mẽ như dũng cảm, không sợ hy sinh, trút căm thù giặc Mỹ lên nòng pháo, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược... Dù mới vào nghề nhưng tôi từng được những nhà báo dày dạn kinh nghiệm truyền đạt như Lê Lựu, Kiều Kim Trùy, Văn Đạt, Lý Văn Nghĩa... chỉ bảo, thì bản báo cáo không bao giờ làm nên bài báo hay, mà người viết báo phải đi tìm các chi tiết tâm tư, tình cảm thật của bản thân, gia đình, đồng đội, bối cảnh không gian, thời gian trên trận địa, những khoảnh khắc tự nhiên bật lên trong khói bom, trong lửa đạn của cuộc chiến đấu... Tất cả như mách bảo tôi phải tìm hiểu thật kỹ các ụ đất được ngụy trang quanh khẩu pháo, khuôn mặt của anh và các pháo thủ, ghi rõ ngày tháng chiến đấu, ai bị thương và bị thương ở đâu, công tác hậu cần của xã với những người trực chiến, mô tả chi tiết một hoặc hai trận chiến đấu trực tiếp với máy bay Mỹ, thậm chí được tận mắt nhìn những mảnh rốc két, mảnh bom quanh trận địa... Tôi hì hục hỏi và ghi chép. Khi bóng tối phủ xuống cánh đồng quanh trận địa thì cuộc làm việc cũng kết thúc. Chúng tôi bắt tay chào đồng chí bí thư, chào xã đội trưởng và anh chị em trong khẩu đội trực chiến và nhanh chóng trở về nơi sơ tán của Tỉnh đội. Đêm hôm ấy, trong nhà dân, tôi hì hục viết về người xã đội trưởng và khẩu đội anh hùng đó. Bài báo dài bốn trang, viết nắn nót trên khổ giấy thếp học sinh cũng hoàn thành vào lúc tiếng gà rộn rã gáy sang canh.

 

Sáng hôm sau, tôi được anh Thái đưa cho một chiếc bánh mỳ kẹp thịt và chia tay. Bốn giờ chiều về đến cơ quan, tôi đưa bài báo cho Văn Đạt và về nhà dân nơi đóng quân, lăn ra ngủ trên chiếc giường cá nhân. Khoảng mười giờ đêm, Văn Đạt đến và dựng tôi dậy:

 

- Này, dậy đi, mình bảo. Bài báo viết được đấy, hay và xúc động lắm nhưng lại thiếu hai từ rất quan trọng. Vậy họ và tên đệm của đồng chí xã đội trưởng là gì? Đừng hiểu những chi tiết nhỏ tưởng như vô hại, nhưng mỗi chi tiết đó lại rất quan trọng trong một bài báo, nhất là đối với báo in. Nó là văn bia chứ không phải văn khấn. Mỗi dấu chấm, dấu phảy, mỗi một từ trong bài báo cần thiết lắm. Không đơn giản được đâu!

 

Tôi ngớ người và lục lại bản báo cáo. Họ cũng chỉ viết đồng chí nọ, đồng chí kia mà không ghi rõ họ và tên đệm của những nhân vật đề nghị khen thưởng. Văn Đạt nghiêm nét mặt:

 

- Trong báo cáo hay nói với nhau người ta có thói quen gọi là đồng chí nọ, đồng chí kia có thể chấp nhận được, còn trên mặt báo thì không thể được! Thôi, sáng mai đồng chí chịu khó đạp xe về địa phương hỏi lại cho rõ đồng chí ấy họ gì, tên đệm là gì? Không thể làm khác được đâu!

 

Cũng chẳng làm gì khác được, tôi đứng lên và đáp lại bằng một từ “Rõ”. Sáng sớm hôm sau, tôi lại đạp chiếc Vĩnh Cửu màu rêu về Tỉnh đội Hải Dương. Lần này thì tôi đạp xe thẳng con đường qua thị trấn Nam Sách, đến phà Giám, qua Cẩm Thượng vào thị xã Hải Dương cho nhanh, mà thời kỳ ấy không ai dám đi ban ngày. Trên con đường lổn nhổn đá, tôi mải miết đạp. Thi thoảng có vài cô, vài anh cũng qua lại nhưng đi sát vào hàng cây. Có tiếng máy bay, tôi dừng xe và áp sát vào hàng cây xà cừ ven đường. Hết báo động, lại mải miết đạp xe xuôi về hướng thị xã. Đúng là, thân làm tội thân. Chỉ một chi tiết nhỏ thiếu trong một bài báo, đôi chân người phóng viên chiến tranh chẳng quản đường sá xa xôi, chẳng quản đạn bom máy bay Mỹ bắn phá bất kỳ lúc nào để xuống tận xã chỉ để hỏi đúng họ và tên đệm của người xã đội trưởng dũng cảm ấy. Tối muộn hôm đó tôi mới lọc cọc đạp xe về nơi Tỉnh đội sơ tán. Nghe tôi kể về “hành trình” gian khổ và cũng rất có thể bị bom vùi chỉ vì một từ thiếu của bài báo, anh Thái cười cảm thông và bảo:

 

- Cứ ăn uống, nghỉ ngơi đi. Tí nữa tôi qua máy của Ban Chính trị Tỉnh đội gọi về Cục Chính trị Quân khu và xin gặp anh Đạt để báo cáo đầy đủ chuyến đi của cậu và họ tên nhân vật trong bài báo của cậu để báo kịp lên ma két. Được chứ?

 

Tôi thầm cảm ơn về nghĩa tình của người lính trong chiến tranh của Trợ lý Chính trị Phạm Hồng Thái, cũng là cộng tác viên tích cực của Báo Sông Hồng. Khi đọc bài báo đăng trên tờ Sông Hồng còn thơm mùi mực, tôi gần như phát khóc về sự bất cẩn của mình.

 

Cũng từ chi tiết ấy mà sau này khi chuyển về Báo Thái Bình (10/1973), tôi luôn tự nhắn nhủ mình hãy thận trọng trong từng bài viết. Và, trong suốt hơn ba mươi năm làm báo, mỗi bài báo dù ngắn, dù dài kỳ đăng trên Báo Thái Bình hay các báo khác, tôi không bao giờ vấp phải cái lỗi tưởng như vô hại ấy.

 

Thiếu Văn Sơn

(Thành phố Thái Bình)

  • Từ khóa